1.Trung Quốc: Trong suốt 50 năm kể từ khi nước CHND Trung Hoa được thành lập (1949), trên TTBH Trung Quốc chỉ có duy nhất công ty BH PNT – Công ty BH nhân dân Trung Quốc (PICC). Từ năm 1992, Trung Quốc đã từng bước thực hiện chính sách mở cửa trong lĩnh vực BH PNT như là một phần của toàn bộ chiến lược hội nhập kinh tế của nước này sau khi gia nhập "Hiệp định chung về thuế quan và thương mại"(GATT).Kế hoạch phát triển và mở cửa TTBH PNT Trung Quốc được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau: – Một là, ưu tiên cấp giấy phép cho các công ty BH PNT nội địa. Việc cấp giấy phép cho các công ty BH PNT nước ngoài được tiến hành "từng bước". – Hai là, khuyến khích thành lập công ty BH PNT dưới hình thức công ty cổ phần để phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao khả năng huy động vốn. – Ba là, phát triển ngành BH phi nhân thọ một cách tích cực và vững chắc. Để đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động KDBH trong điều kiện có sự tham gia của các công ty BH nước ngoài, Chính phủ đã đặt ra những hạn chế khi cấp giấy phép cho các công ty BH nước ngoài. Cụ thể là: + Hạn chế về lãnh thổ: Nhà nướcTrung Quốc qui định các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép hoạt động trong phạm vi lãnh thổ hạn chế tại Thượng Hải và Quảng Châu. + Điều kiện cấp giấy phép: Để được cấp giấy phép KDBH tại Trung Quốc, công ty BH nước ngoài phải tham gia hoạt động KDBH trên 30 năm tính đến ngày xin cấp giấy phép, có tổng tài sản trên 5 tỷ USD vào năm trước của năm xin cấp giấy phép và đã mở cửa văn phòng đại diện ở Trung Quốc trên 3 năm. Căn cứ theo các nguyên tắc nêu trên, cho đến nay, TTBH Trung Quốc đã có những bước phát triển vững chắc.Trên toàn quốc đã có nhiều thành phần kinh tế hoạt độnh KDBH PNT (doanh nghiệp Nhà nước,công ty cổ phần, công ty liên doanh và công ty BH 100% vốn nước ngoài). Bên cạnh đó còn có sự góp mặt của hơn 80 văn phòng đại diện công ty BH nước ngoài.
2. Thái Lan: Kế hoạch tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong đó có ngành BH PNT và được chia làm ba giai đoạn: – Giai đoạn 1: Tăng số lượng các công ty BH PNT trong nước. – Giai đoạn 2: Cho nước ngoài nắm giữ từ 25 – 49% cổ phần trong một công ty bảo hiểm trong nước, theo các điều kiện và tiêu chuẩn do Bộ Thương Mại – cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động KDBH tại nước này quy định. – Giai đoạn 3: Cho phép các công ty nước ngoài mở chi nhánh ở Thái Lan. Đến năm 1999, về cơ bản giai đoạn 1 và giai đoạn 2 đã hoàn thành, giai đoạn 3 đã được triển khai bước đầu. Tuy nhiên, việc tự do hoá không đồng nghĩa với việc giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, điều quan trọng là phải luôn giữ cân bằng giữa hai vấn đề tự do hoá và yêu cầu bảo hộ. Sau một thời gian thực hiện kế hoạch tự do hoá, ngành bảo hiểm Thái Lan đã đạt được kết quả: Sau giai đoạn 1 và 2 doanh thu phí BH tăng 208,1% từ 1,97 tỷ USD lên 4,1 tỷ USD, trong khi GDP chỉ tăng 49% trong giai đoạn này. Bồi thường BH phi nhân thọ cũng tăng 308% từ 400 triệu USD lên 1232 triệu USD trong cùng thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành BH trong thời kỳ này là 14 -16%/năm. Về phần mình, các công ty BH nước ngoài đã chuyển giao kiến thức, công nghệ, kinh nghiệm và sản phẩm mới đặc biệt là vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho TTBH nội địa.